Tour Du Lịch miền Bắc: Hà Nội - Hà Giang - Tuyên Quang - Bắc Cạn - Hà Nội(06 ngày 05 đêm)


6:12 CH - 06/05/2011

Tour Du Lịch Miền Bắc: HÀ GIANG - TUYÊN QUANG  - BẮC CẠN 

Thời gian: 6 ngày 5 đêm, bằng ô tô du lịch và khởi hành hàng ngày

Tây Bắc là sự quyến rũ bí ẩn đối với tôi. Không chỉ sắc màu của các tộc người với nhiều phong tục lạ, mà còn là núi non trùng điệp quấn quít mây bay. Ai đã từng qua Tây Bắc dù chỉ một lần cũng thấy choáng ngợp trước vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ còn nguyên sơ nơi đây. Những rừng cây rậm rạp hoang vu và kỳ ảo, những con suối vừa hiền hòa vừa dữ dội len lỏi giữa các khe đá, miên man qua năm tháng với khúc nhạc rừng bất tận. Và đặc biệt là chim rừng - những nhạc sĩ kì tài - mà thiên nhiên ban tặng cho miền rừng núi, đã tung thả vào không gian nơi đây những cung bậc tuyệt vời mà không bản hòa tấu nào, giai điệu nào sánh nổi.

Giá tour cho 01 khách du lịch: 5.890.000đ

Lưu ý: Giá trên áp dụng từ 10 khách lẻ ghép đoàn & khởi hành hàng ngày.

  Ngày

Chi tiết tour

Hình ảnh

Ngày 01

Hà Nội - Hà Giang                          Ăn: T/C

07h00: Đón quý khách tại điểm hẹn, khởi hành đi Hà giang, dừng nghỉ ít phút và ăn trưa tại thị trấn Sơn Nam - Tuyên Quang.

13h00: Tiếp tục hành trình tới Hà Giang, trên đường quý khách chiêm ngưỡng cảnh đẹp hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc Việt Nam và tham quan bản làng dân tộc Tầy đen sinh động - ấn tượng.

19h00: Đến thị trấn Hà Giang, qúy khách nhận phòng khách sạn, nghỉ ngơi và ăn tối. Tối tự do tham quan thị trấn Hà Giang về đêm.

Ngày 02

Mèo Vạc - Đồng Văn                    Ăn: S/T/C

Dùng bữa sáng tại khách sạn, sau đó hướng dẫn đón quý khách đi tham quan cao nguyên Hà Giang với làng dân tộc Bo Y, huyện Quảng Bà quanh năm nắng ấm, tiếp tục tới tham quan Cổng trời, núi Cô Tiên, làng nghề thêu tay truyền thống. Ăn trưa tại thị trấn Yên Minh.

Chiều: Xe đón quý khách đến thị trấn Mèo Vạc (89 Km), tham quan làng dân tộc Dao, sông Nhớ Quê với đỉnh Ma pileng.

19h30: Đến thị trấn Đồng văn, nghỉ ngơi, nhận phòng và ăn tối. Quý khách nghỉ đêm tại khách sạn.

Ngày 03

Lũng Cú - Sa Phìn - Hà Giang     Ăn: S/T/C

07h00: Quý khách dùng bữa sáng tại khách sạn, sau đón đi tham quan Nhà Cổ, làng dân tộc thiểu số Lô Lô, đi trekking tới đỉnh cột cờ trên núi Lũng Cú (1km), ngắm cảnh thung lũng cổ ẩn hiện trong sương sớm.

10h00: Quý khách đến tham quan bản làng Sa Phìn với cung điện vua Mèo, trên đường dừng nghỉ và tham quan làng dân tộc Lùng Tao. (Nếu quý khách đến đây vào ngày chủ nhật sẽ được tham gia phiên chợ phiên của các dân tộc quanh vùng đến trao đổi, mua bán các vật dụng cuộc sống hàng ngày và các sản phẩm tay nghề nghệ thuật truyền thống của các dân tộc trong Hà Giang. Nghỉ đêm tại Hà Giang.

Ngày 04

Hà Giang - Tuyên Quang           Ăn: S/T/C

07h00: Dùng bữa sáng tại khách sạn, làm thủ tục check out, lên xe đi suối nước nóng Thanh Hà – Quý khách được ngâm mình trong làn nước với nhiệt độ 40c loại bỏ cảm giác mệt mỏi và cảm nhận về giá trị hữu ích mà nguồn nước thiên nhiên nơi đây dành cho sức khỏe con người, làng Trắng.

16h30: Tới lại Tuyên Quang, nhận phòng, nghỉ ngơi và dùng bữa tối. Tối quý khách tự do tham quan và khám phá cuộc sống về đêm của Tuyên Quang ngày nay. Nghỉ đêm tại khách sạn.

Ngày 05

Tuyên Quang - Hồ Ba Bể          Ăn: S/T/C

08h00: Quý khách lên xe đi hồ Ba Bể, trên đường chiêm ngưỡng cảnh núi rừng và bản làng Tây Bắc ấn tượng và hùng vĩ. Ăn tối và nghỉ đêm tại vườn quốc gia Hồ Ba Bể.

Ngày 06

Hồ Ba Bể - Hà Nội                       Ăn: S/T/C

Sau bữa sáng quý khách, quý khách lên thuyền đi tham quan Lòng Hồ Ba Bể với núi Cô Tiên, đảo Bà Goá, làng dân tộc sống quanh vùng lòng hồ Ba Bể. Ăn trưa tại nhà khách Ba Bể, nghỉ ngơi ít phút lên xe về Hà Nội.

20h00: Về đến nội thành Hà Nội, chia tay quý khách, hẹn gặp quý khách trong chuyến đi tới.

Dịch vụ bao gồm:

  • Xe ô tô đời mới đưa đón tham quan theo chương trình.

  • Khách sạn trung tâm phòng tiện nghi 2-3 khách / phòng.

  • Mức ăn tốt theo chương trình.(S: ăn sáng, T: ăn trưa, C: ăn chiều)

  • Bảo hiểm Du lịch trong xuốt chuyến đi, mức 10.000đ/ khách/vụ

  • Huớng dẫn viên nhiệt tình kinh nghiệm,trong suốt chuyến đi

  • Vé Thắng cảnh lần thứ nhất vào các điểm tham quan du lịch.

  • Thuyền tham quan Ba Bể

  • Nước uống trên xe.

Không bao gồm: Thuế VAT, Nghỉ phòng đơn, và các chi phí cá nhân khác ngoài chương trình.

Lưu ý:

  • Trẻ em từ 10 tuổi trở lên mua 01 vé; Trẻ em từ 04 - 9 tuổi mua 75% chi phí vé người lớn.

  • 02 người lớn chỉ được kèm 01 trẻ em từ 02 tuổi trở xuống, nếu trẻ em đi kèm nhiều hơn thì từ em thứ 02 trở lên phải mua ½ vé.

Ghi chú:

  • Quý khách mang theo CMND (Người Việt Nam) & Passport (Việt Kiều - Khách  Nước Ngoài ).

  • Quý khách mang theo giầy đi rừng, dao nhỏ, bật lửa, nến, thuốc chống côn trùng, giầu gội, xà bông, kim chỉ, bong gòn & 01 lọ cồn 90C.

    Mọi chi tiết xin liên hệ:
    du lịch VITOUR ®
    Điện thoại: (04) 39958651 * Fax: (04) 35562543
    * Hotline: (04) 39958651 – 0904 933 568
    E.mail:

     Website: dulichmienbac.com.vn  www.vitour.com.vn

     

VỀ ĐÂY...TIẾNG CHIM RỪNG BAN MAI TÂY BẮC

Hoa ban - vẻ đẹp miền Tây Bắc.

Hoa ban là một trong những sản vật của núi rừng Tây Bắc. Hàng nghìn đời nay, hoa ban đã rất tự nhiên đi vào đời sống văn hóa - tâm linh của nhân dân Tây Bắc, nhất là bà con thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Với đồng bào Thái, có lẽ không ai là không trải qua tuổi thanh xuân, với những trò chơi thú vị hái hoa ban và hát giao duyên. Trong ký ức của người đi xa, cùng với nỗi nhớ mường nhớ bản, nhớ người thân yêu, còn có nỗi nhớ da diết hoa ban vào mỗi độ xuân về.

 

Hoa ban xuất hiện trong các trường ca, các truyền thuyết và các câu chuyện kể bên bếp lửa hằng đêm của người dân Tây Bắc. Dã sử dân gian kể rằng xưa hoa ban chỉ một màu trắng. Từ khi nàng Mai con gái của Lang Cum nổi tiếng khắp chín châu mười Mường chối bỏ ngôi bà Nàng, lấy chồng nhà dân mọn rồi theo quân ông Hoàng đánh giặc dữ. Khi ông Hoàng thua lớn ở Mạnh Thiên, vợ chồng nàng Mai tuẫn tiết theo chủ tướng dưới gốc một cây ban cội. Máu của hai người làm mùa xuân năm ấy cây ban cội ra màu hoa ban đỏ. Rồi gió đưa nhị hoa rải khắp vùng tạo thành giống ban hồng ngày nay. Đối với người dân vùng Tây Bắc cả hai thứ hoa ban đều là món "hoa rau" quý. Quà tết bố vợ ở Mường Tè, Pắc Luông... bên cạnh bánh chưng, bánh đuôi én, bánh trứng kiến (loại bánh làm bằng bột nếp trộn với trứng kiến trên rừng) bao giờ cũng đặt cùng với “hoa rau" mới tỏ rõ sự trân trọng thanh cao.

 

Hoa ban cùng họ với hoa bướm, không có hương nhưng có vị, mỗi hoa có 4 - 5 cánh, nhị mầu hồng, gân mầu tím. Nhị hoa mang vị ngọt, quyến rũ nhiều loài côn trùng, nhất là các loài lấy mật như ong, bướm. Tên gọi hoa ban theo tiếng của dân tộc Thái, có nghĩa là hoa ngọt, đó vừa là danh từ vừa là tính từ. Hoa ban nở rộ nhất và đẹp nhất là đầu tháng ba, đến đầu tháng tư thì hoa bắt đầu tàn. Lúc nở rộ, trông cây ban như chỉ có hoa mà không có lá. Bà con vùng cao coi hoa ban như thể nông lịch của mình, họ phát nương vào lúc hoa nở và tra hạt vào lúc hoa tàn. Cứ năm nào hoa ban nở đều khắp cả suối, cả đồi, cả rừng là năm ấy trời không mưa dai quá mà không nắng gắt quá! Và năm đó người ta ít lo lắng về nắng hạn cũng như lũ lụt. 

 

Hàng năm, cứ vào mùa hoa ban nở, người Thái ở huyện Mai Châu (Hòa Bình) lại mở Hội Xên bản, xên mường (còn gọi là hội hoa ban) để cầu phúc và gửi gắm vào đó những ước vọng lớn lao về một cuộc sống bình yên, no ấm nơi bản mường, đồng thời cũng là dịp thi tài, vui chơi, trai gái tìm hiểu, tâm tình qua tiếng hát, tiếng đàn. Truyền thuyết của người Thái kể rằng: Thuở ấy, có một chàng trai tên là Khum đem lòng yêu cô gái tên là Ban. Khum vừa giỏi làm nương, lại có tài săn bắn. Ban thì khéo tay dệt vải lại vừa có giọng hát làm say đắm nhiều chàng trai. Thế nhưng, cha nàng Ban vì ham giàu nên đã đem gả nàng cho con trai nhà tạo mường, vốn là một thanh niên lười nhác lại có tật gù lưng.

 

Trong bước đường cùng, nàng Ban đã chạy sang bản của Khum để cầu cứu. Nhưng chẳng may khi đến nhà Khum, thì được tin chàng đã theo cha đi mua trâu ở bản xa. Nàng bèn lấy chiếc khăn piêu của mình, buộc vào nơi cầu thang nhà người yêu, rồi bươn bả đi tìm chàng. Nàng đi hết núi này, rừng khác, gọi tên người yêu đến khản cả giọng, nhưng chàng ở xa nào có nghe thấy. Cuối cùng kiệt sức, nàng ngã gục sau khi vượt qua một dãy núi cao. Nơi nàng nằm xuống, sau đó mọc lên một cây hoa mang búp trắng như búp tay người con gái. Và chẳng bao lâu, loài hoa ấy mọc lan ra khắp núi rừng Tây Bắc, và hàng năm cứ mỗi độ xuân về, hoa nở trắng như bông. Người ta đặt tên loài hoa đó là hoa ban.

 

Chàng Khum, khi về đến nhà, thấy chiếc khăn piêu của người yêu vắt nơi cầu thang, biết là có chuyện chẳng lành, bèn vội vã đi tìm. Đi mãi hết mường này, bản khác, cuối cùng, chàng kiệt sức, ngã xuống. Sau khi chết, chàng hóa thành con chim sống lẻ loi trong rừng, và cứ đến mùa hoa ban nở, lại hót vang như tiếng gọi người yêu tha thiết tự năm nào. Hiện nay, trong cộng đồng các dân tộc Tây Bắc đang tồn tại đồng thời nhiều "típ" truyện nữa, cùng có nội dung giải thích nguồn gốc hoa ban. Cách dẫn dắt và tên nhân vật của các truyện tuy có khác nhau, nhưng đều giống nhau ở chỗ dùng hoa ban làm biểu tượng cho tấm lòng thủy chung trong tình yêu đôi lứa. Do yêu hoa, con trai con gái Tây Bắc lặn lội trong những cánh rừng mờ sương ngắm nhìn những bông hoa sáng rực như hạt ngọc, họ hái hoa cài lên tóc, họ còn đem hoa về biếu cho người thân quen nhất để mở tiệc ăn mừng mùa hoa ban nở.

 

Mùa hoa ban, các bà các chị lúc đi nương về thường mang theo một ít hoa ban, không phải để chơi mà là để ǎn. Hoa ban nấu canh, làm nộm, đồ lên chấm với dấm ớt mǎng chua... đó là thuộc tính riêng của hoa ban mà nhiều loài hoa khác không có được. Hoa ban còn là vị thuốc quý trị chứng ho khan hoặc viêm họng rất tốt. Có người dùng lá và búp non của cây ban sao vàng hạ thổ, chữa bệnh kiết lỵ tương đối hiệu quả. Trong mâm cỗ đầu năm, người Thái cũng hay cài những cánh hoa đẹp trên bàn thờ như thể biết ơn những bậc sinh thành đã qua đời. Nếu là con trai hay con gái họ kể cho nhau nghe câu chuyện tình trong trắng và thương tâm, thủy chung của chàng Khum và nàng Ban xa xưa rồi cùng rủ nhau ra rừng tìm những cánh hoa ban mới nở. Họ trân trọng mang về tặng cha mẹ, tặng người yêu, vì người Thái cho rằng, hoa ban trong trắng vừa là biểu tượng của đạo hiếu đối với cha mẹ, vừa là biểu tượng của tình yêu trai gái. (MT).

 

Khăn Piêu - nét đẹp của cô gái Thái 

Mỗi dân tộc trên thế giới đều mang sắc thái văn hóa độc đáo của mình qua trang phục. Cùng với ngôn ngữ, trang phục là dấu hiệu thông tin quan trọng thứ hai để chúng ta dễ nhận biết tộc người này và tộc người khác mỗi khi có dịp tiếp xúc. Người Thái cư trú ở nhiều nơi trên đất nước ta, nhưng tập trung đông nhất là ở các tỉnh Tây Bắc: Sơn La, Lai Châu.... Ngoài sức hấp dẫn của trang phục, khăn piêu của phụ nữ Thái mang một nét riêng thật hấp dẫn, độc đáo:

 

“Em se sợi thành vóc hoa dâu

Em dệt cửi thành gấm vân chéo

Em dệt tơ thành đóa hoa vàng

Người các bản các phường muốn khóc

Đều ước ao được em thêu khăn"

(Dân ca Thái)

 

Chỉ trừ một số phụ nữ Thái trắng đội nón tát, còn đa số phụ nữ Thái Mường Thanh (Lai Châu), Mường La (Sơn La), Mường Lò (Lào Cai), đều đội khăn vải. Khăn vải dùng để đội trên đầu người Thái gọi là piêu. Piêu có nhiều loại khác nhau, có loại được thêu hoa văn bằng chỉ màu sặc sỡ, có loại chỉ là một tấm vải bông nhuộm chàm, tùy từng vùng, từng địa phương mà piêu có những sắc thái riêng của nó. Piêu có tác dụng che đầu khi nắng gió, làm ấm đầu khi mùa đông giá lạnh... Piêu còn là vật trang sức quan trọng của các cô gái Thái trong sinh hoạt hằng ngày, nhất là trong lúc đi chơi hay dự lễ hội... Đồng bào Thái làm piêu từ loại vải bông tự dệt. Trước khi thêu, miếng vải được chọn làm khăn đội đều phải nhuộm chàm. Chàm là màu nền để trên đó người phụ nữ Thái thêu lên các đồ án hoa văn bằng các loại chỉ màu (xanh, đỏ, tím, vàng, da cam....) ở hai đầu khăn. Để có một chiếc piêu hoàn chỉnh, người phụ nữ Thái phải mất thời gian từ hai đến bốn tuần. Piêu Thái không trang trí ở toàn bộ diện tích, chỉ tập trung trang trí ở hai đầu. Trước khi thêu, người ta ghép mảnh vải đỏ làm viền. Các viền đỏ bọc cho sợi ở các đầu khăn khỏi bị xổ ra, vừa như là giới hạn diện tích trang trí ở đầu khăn. Đường viền vải đỏ bọc ở ba mép đầu khăn rộng trên dưới 1 cm. Phụ nữ Thái dùng lối khâu luồn rất khéo, hạn chế tối đa đường chỉ lộ ra ngoài để cho đường viền màu đỏ và nền chàm của khăn liền làm một.

 

Trước khi thêu, chị em làm những chiếc cút để đính vào piêu, có thể làm nhiều cút piêu một lúc rồi dùng dần. Đối với các cút piêu đòi hỏi phải tỷ mỷ, cầu kỳ, chỉ có những người thành thạo mới biết làm. Các cút sau khi làm xong được ghép lại rất khéo vào đầu piêu. Các loại chỉ màu được sử dụng như vậy vừa mang chức năng kỹ thuật, vừa mang giá trị thẩm mỹ. Nhìn vào chiếc cút được dính vào đầu piêu, ta rất khó đoán nhận ra được mạch chỉ khâu ghép các đường trang trí với nhau. Các loại đường khâu đều do phụ nữ Thái tự sáng tạo, có nhiều kiểu: móc xích, chân rết, xương cá... Các cút piêu trước hết được đặt trên ba đoạn thẳng của mỗi đầu khăn. Còn chính bốn góc của khăn, chị em dùng dây làm cút còn dư tết thành hình bông hoa cách điệu. Cút piêu thường được sắp xếp thành từng chùm lẻ 3, 5, 7 cái trên các vị trí cách đều nhau ở hai đầu khăn, bởi vậy cút ở trên piêu bao giờ cũng là cút chùm. Cũng như nhiều vật dụng khác (cúc áo, chắn song cửa sổ, bậc thang nhà sàn...), cút piêu được thiết kế theo quan niệm số lẻ. Bình thường phụ nữ Thái đội piêu có cút chùm ba, nhưng khi tặng piêu cho người bậc trên, người mình quý trọng, kính yêu thì tặng loại piêu có cút chùm năm trở lên....

 

Sau khi bọc viền và ghép cút piêu, chị em mới bắt đầu công việc thêu piêu. Khi thêu những hoa văn đa dạng lên hai đầu khăn, họ nhìn theo mẫu, song không dập khuôn một cách máy móc. Trong quá trình thêu, họ có thể sáng tạo theo ý muốn chủ quan. Nét đặc biệt là phụ nữ Thái không thêu piêu ở mặt phải như lối thêu thông thường mà lại thêu từ mặt trái, các hoa văn với đồ án và màu sắc phức tạp lại hiện lên ở mặt phải, đó là lối thêu truyền thống với trí tưởng tượng của kỹ thuật và mỹ thuật dân gian tài tình. Piêu được tạo theo lối luồn chỉ hay đan chỉ màu vào vải, nhưng cái khó là phải tính toán theo một nguyên tắc nhất định để luồn chỉ vào mặt trái và hoa văn lại hiện lên chính xác ở mặt phải. Hoa văn piêu không đơn giản, điểm xuyết mà là một hệ thống đồ án có bố cục nội dung phức tạp, đòi hỏi người phụ nữ phải nắm chắc nguyên tắc kỹ thuật, phải thuộc đồ án hoa văn với hai mặt phải, trái của nó.

 

Việc học dệt vải và học thêu khăn piêu là bài học phổ thông, tất yếu của mọi thành viên nữ trong nếp sống của cộng đồng dân tộc Thái, bởi vậy piêu còn là một tiêu chuẩn xã hội để đánh giá một phụ nữ. Qua chiếc piêu có thể biết được chủ nhân của nó là người tài hoa, siêng năng, chịu khó hay là người lười nhác, vụng dại. Khăn piêu của phụ nữ Thái không chỉ mang giá trị thẩm mỹ mà còn mang tính xã hội, cùng với váy, áo, nón đội, thắt lưng, piêu góp phần tạo nên một nét đẹp, một sắc thái riêng, hấp dẫn về trang phục truyền thống của dân tộc Thái.

 

Đi chợ phiên Mường Hum 

Du khách lên tỉnh biên giới cực Bắc Lào Cai mà bỏ qua chợ phiên Mường Hum thì thật là tiếc. Như các chợ phiên khác ở đây, chợ Mường Hum họp vào chủ nhật hàng tuần, là ngày nhộn nhịp nhất của vùng núi cao Bát Xát. Từ thị xã Lào Cai, đi ôtô qua 20km đường nhựa tới huyện lỵ Bát Xát, rồi từ đây vượt thêm 24km đường đèo để đến chợ Mường Hum.  Chợ Mường Hum nằm dưới thung lũng nhỏ, kề bên là suối nước trong vắt, xung quanh là những dãy núi cao ngất trùng mây. Cái chợ phiên cuối tuần ven suối Mường Hum này là nơi gặp gỡ, giao lưu, mua bán và vui chơi của bà con các dân tộc Hà Nhì, Mông, Hoa, Giáy, Dao Đỏ, Dao Tuyển, Hán...

 

Phạm Thị Đoàn Thanh)Ngày thường, ai đến đây cũng thích ngắm cảnh Mường Hum sơn thuỷ hữu tình, còn vào ngày chợ phiên cảnh bắt mắt du khách nhất là đoạn suối ven chợ. Bên bờ suối, bầy ngựa đợi chủ vào chợ tập trung bên suối với đủ sắc lông, thỉnh thoảng chúng cất tiếng hí vang khiến bức tranh sơn cước càng thêm sinh động, rất hiếm thấy ở nơi khác. Những chiếc cầu treo hay cầu đá bắc qua suối lúc nào cũng có người dắt ngựa qua lại...Bên trong chợ ồn ào, tấp nập và khách không khỏi trầm trồ trước những bộ y phục "loá mắt" của các cô thiếu nữ dân tộc. Những cô gái, chàng trai ở bản làng đi chợ đâu chỉ để mua bán mà còn đi để tìm hiểu, để vui chơi, tìm bạn tình, vì thế ai cũng làm đẹp chẳng kém gì đi dự ngày hội. Các thiếu nữ Mông váy hoa gợi cảm, lại đội thêm mái tóc giả bằng len sợi nhuộm màu rực rỡ trông giống như một bông hoa biết đi, lung linh khoe sắc. Đẹp không kém là bộ trang phục Dao Đỏ: các thiếu nữ mặc áo quần màu chàm đen điểm xuyết hoa văn trên ngực tựa như những cánh bướm và đội chiếc khăn đỏ rực được kết thêm rất nhiều món trang sức bằng bạc, lúc nào cũng lấp lánh. Cả các em bé dân tộc Dao, dù còn được địu trên lưng mẹ nhưng cũng được mẹ chăm chút áo quần, khăn mũ và các em được mọi người thích ngắm nhất...

 

Đến chợ phiên Mường Hum, du khách không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh vật mà còn thấy cuộc sống con người nơi đây thật yên bình, vui tươi và mong muốn có dịp được trở lại nơi này. Câu thành ngữ phản ánh huyền thoại về cội nguồn dân tộc  Người Việt Nam ai mà không biết câu thành ngữ về huyền thoại cội nguồn dân tộc "Con Rồng Cháu Tiên". Thế nhưng không ít tuổi trẻ sinh ra và lớn lên, trưởng thành ở xứ người, xa bối cảnh văn hoá và lịch sử dân tộc có thể sẽ không hiểu vì sao người Việt lại coi mình là hâụ duệ của Tiên Rồng. Xin được nói đôi điều về gốc gác Con Rồng - một vế của câu thành ngữ quen thuộc.

 

Về đây...tiếng chim rừng ban mai Tây Bắc

Dù đã đi nhiều miền rừng khác nhau, nhưng Tây Bắc một thời "Tây tiến" ghi dấu ấn hào hùng, đã để lại muôn vàn khác lạ trong tôi. Từ Hà Nội, chỉ nửa ngày đường, tôi đã đến đây để choáng ngợp trước bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, nguyên sơ và mê đắm trong bản giao hưởng của muôn loài chim rừng. 

 

Tây Bắc là sự quyến rũ bí ẩn đối với tôi. Không chỉ sắc màu của các tộc người với nhiều phong tục lạ, mà còn là núi non trùng điệp quấn quít mây bay. Ai đã từng qua Tây Bắc dù chỉ một lần cũng thấy choáng ngợp trước vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ còn nguyên sơ nơi đây. Những rừng cây rậm rạp hoang vu và kỳ ảo, những con suối vừa hiền hòa vừa dữ dội len lỏi giữa các khe đá, miên man qua năm tháng với khúc nhạc rừng bất tận. Và đặc biệt là chim rừng - những nhạc sĩ kì tài - mà thiên nhiên ban tặng cho miền rừng núi, đã tung thả vào không gian nơi đây những cung bậc tuyệt vời mà không bản hòa tấu nào, giai điệu nào sánh nổi. Tôi may mắn có được một lần đắm mình trong âm thanh rừng của bình minh Tây Bắc và khúc hát ban mai bằng muôn vàn tiếng chim hót, là ấn tượng khó phai trong tôi, dù đã nhiều lần đi đến nhiều miền rừng ở nhiều nơi khác.

 

Khi những tia nắng đầu tiên, mỏng manh màu cam nhạt còn lấp ló sau những đỉnh núi nhòn nhọn xám mờ, chưa đủ sức xuyên thủng màn sương trắng đục như đổ mây che phủ rừng cây, trùm lên những nóc nhà… Mọi vật còn ngái ngủ trong sự yên tĩnh trong trẻo… Hơi rùng mình với cái tê tê lạnh phả ra từ khí núi, vẫn mơ màng ấm áp với dư âm một giấc mơ đẹp, tôi bỗng thót người khi nghe một tiếng chim lảnh lót, réo rắt trong như ngọc, giống mũi tên xuyên qua màn sương, át cả tiếng gió lướt trên các ngọn núi, đầy quyền lực và có lẽ đầy ma lực… Sau tiếng chim, cả núi rừng như chuyển động, bắt đầu là tiếng lao xao của người, rồi tiếng gõ móng lộp cộp của gia súc, tiếng gà kêu, ngựa hí… Cả một mớ âm thanh hỗn tạp nơi làng bản chuẩn bị cho một ngày mới. Song tất cả đều như bị chìm khuất bởi dàn đại hòa tấu của muôn loài chim rừng hót đón chào mặt trời. Dàn nhạc chim này đã tạo cho bình minh Tây Bắc cái rộn ràng đặc biệt mà không đâu có được. 

 

Tiếng chim hót có cung bậc trầm bổng, nhịp nhàng không có ai tranh cướp, chen lấn ai. Có lúc hòa vào nhau, có lúc tách riêng ra như có một vị chỉ huy thần bí điều khiển. Cả một bản hợp âm phong phú đa dạng, đa âm sắc như một dòng chảy của âm thanh tràn ngập cảnh rừng núi trong nắng sớm. Tôi có thể khẳng định không có một nhà nuôi chim cảnh, vườn chim cảnh nào có được khúc nhạc rừng đầy ngẫu hứng của chim rừng Tây Bắc hay như vậy. Tôi không phân biệt được tiếng hót nào của loài chim nào, mà chỉ nghe, cảm nhận trong trạng thái say mê, không dứt ra được. Người như đắm chìm trong bản giao hưởng đặc biệt của rừng. Tiếng chim lúc ríu ran như kể cho nhau nghe những câu chuyện mà chỉ có chim mới hiểu. Khi thì đục đục, khàn khàn, chậm rãi nhả từng tiếng, tưởng tượng như một triết gia đang giảng đạo đức cho lũ chim non láu táu cứ hót líu tíu, nhõng nhẽo không chịu rời tổ tập bay tìm mồi theo mẹ cha. Có những tiếng chim hót tha thiết, nghe như thôi thúc, giục giã, đứng ngồi không yên phải đi tìm một việc gì để làm… Cũng có tiếng chim hót một hơi dài lanh lảnh, kiêu kì như một kẻ đành hanh, chanh chua… Bên cạnh đó lại có tiếng hót trong veo, mảnh như sợi dây kéo dài quấn quanh các ngọn cây, đánh thức từng cái lá non xòe nở. Ngược lại, có tiếng hót nghe rụt rè, nhẹ nhàng, giữa các quãng nghỉ của loài khác. Thỉnh thoảng, lẫn trong các tiếng chim một giọng hót khắc khoải, như chờ đợi như khẩn cầu…, có lẽ là của một con chim lẻ bạn, lẻ bầy. Lại có loài nghe tiếng hót nghe oai phong, rền vang cả một khoảnh rừng như dàn bè trầm đẩy tiếng hót réo rắt miên man của loài chim khác. Đôi lúc có tiếng hót như một chuỗi âm thanh nghịch xen vào giữa nghe ngộ nghĩnh, khiến cho ta phải bật cười và nghĩ đến sự nghịch ngợm của loài chim nào đó.

 

Cũng có khi, cả khu rừng im bặt, nhường cho hai con chim hót xướng họa, tiếng chim vút lên như chạm đỉnh núi, chạm mây, chạm vào những tia mặt trời hồng rực đang tỏa sáng xua tan màn sương phủ rồi quay trở lại. Giai điệu thần tiên xoáy vào lòng người vẻ đẹp thánh thiện của âm thanh. Có lúc như để phô diễn giọng hát, từng con chim cất tiếng, một giai điệu đầy ngẫu hứng, mà thật lạ, không giai điệu nào trùng lặp. Rồi cứ như một cây đũa thần chỉ huy, cả khu rừng cũng bật lên bản hòa âm của muôn tiếng hót du dương quyện vào nhau nhiều thang âm, nhiều bè, mà nghe trong đó có cả tiếng suối róc rách, tiếng gió lao xao, tiếng lá rừng rì rào, tiếng rơi nhè nhàng của giọt sương từ trên ngọn lá rơi xuống thảm cỏ làm nền… Tôi đắm trong âm thanh khúc hát ban mai của núi rừng Tây Bắc và không thể nào quên được cái cảm giác tuyệt vời khi thưởng thức giai điệu thiên nhiên tinh khôi, thần tiên, hồn nhiên giữa cảnh rừng hoang vu Tây Bắc.

 

Khúc hát ban mai của những loài chim rừng làm cho Tây Bắc hoang sơ, kỳ bí, bừng sáng hơn trong bình minh. Cho những váy áo đầy sắc màu trên những khu ruộng bậc thang thắm sắc rực rỡ hơn và cuộc sống dù đơn sơ vẫn luôn ấm áp ngọt ngào tràn niềm vui. Chợt phấp phỏng lo sợ, nếu một ngày kia, vì lòng tham lam của con người, những nhạc sĩ thiên tài của thiên nhiên, những chú chim hoang dã bị bắt nhốt vào lồng… Khúc hát ban mai không còn. Và bình minh Tây Bắc… Rừng buồn… Người buồn…

Các tin khác:
Hà nội – Tân Trào - Hồ Núi Cốc - Hà Nội (Thời gian: 2ngày/1 đêm - Khởi hành bằng ô tô)

Hôm nay


Description
Ngày mai


Lượt truy cập
Hôm nay: 954
Hôm qua: 1187
Tất cả: 1893681